Hàng thừa kế thứ 1

kính hoa đồng tại trà vinh 13

Trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào vấn đề thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ các quyền công dân.

Tuy nhiên không phải bất kỳ ai cũng có nhu cầu lập di chúc hoặc để lại di chúc kịp thời, trong những trường hợp đó đòi hỏi di sản của phải được chia theo quy định pháp luật.

Để chia được chúng ta cần xác định được hàng thừa kế thứ nhất gồm những ai một cách đầy đủ và chính xác. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ cung cấp đến bạn đọc nội dung hàng thừa kế thứ 1 theo quy định của pháp luật hiện hành.

Thừa kế theo pháp luật là gì

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định, căn cứ tại điều 649 Bộ luật Dân sự 2015.

Trước hết, theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì thừa kế “là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống”.

Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp thì thừa kế là “sự dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn sống.

Thừa kế luôn gắn với sở hữu. Sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế và thừa kế là phương tiện để duy trì, củng cố quan hệ sở hữu”.

Khi có sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật thì khái niệm quyền thừa kế mới bắt đầu xuất hiện, điều này khác với thời kỳ sơ khai khi chưa có sự phân chia giai cấp người ta gọi chung đó là thừa kế.

Theo nghĩa rộng thì quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết cho người còn sống.

Theo nghĩa hẹp thì quyền thừa kế là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản htừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó khi còn sống được thể hiện bằng di chúc hoặc theo điều kiện, trình tự và thủ tục do pháp luật quy định (thừa kế theo pháp luật).

Còn thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 674 BLDS 2015).

Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận chung về thừa kế theo pháp luật như sau: Thừa kế theo pháp luật là sự dịch chuyển di sản của người chết cho người còn sống trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng hay quan hệ thân thuộc giữa người có tài sản để lại sau khi họ chết và người nhận di sản.

Như vậy, có thể thấy quy định về việc thừa kế theo pháp luật vừa bảo vệ quyền đương nhiên của người có tài sản được để lại tài sản của họ khi họ chết, vừa bảo vệ quyền của những người có quan hệ huyết thống, gia đình hay thân thuộc với người đã chết có tài sản để lại.

Hàng thừa kế thứ nhất gồm những ai

Khi phân chia thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế sẽ được xác định theo các hàng thừa kế. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người cùng được hưởng bằng nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại.

Cụ thể, tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật như sau:

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Theo quy định trên thì người thuộc hàng thừa kế thứ 1 sẽ bao gồm các mối quan hệ: quan hệ hôn nhân (vợ chồng); quan hệ huyết thống (cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ); quan hệ nuôi dưỡng (cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi) với người chết.

Người thừa kế là vợ hoặc chồng của người để lại di sản

Trong trường hợp này, chỉ khi nam nữ đã đăng ký kết hôn mới được ghi nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình (đăng ký kết hôn) và đứng ở vị trí hàng thừa kế đầu tiên của người còn lại.

Khi xác định việc thừa kế của người vợ hoặc người chồng của người đã chết cần phải lưu ý một số vấn đề như sau:

Hàng thừa kế thứ 1
Hàng thừa kế thứ 1

Người vợ (hoặc chồng) của người chết được hưởng thừa kế di sản của người còn lại kể cả tài sản đó là tài sản chung đã được thỏa thuận chia trong thời kỳ hôn nhân.

Vợ (hoặc chồng) của người chết vẫn được xếp hàng thừa kế đầu tiên ngay cả khi họ đã xin ly hôn với nhau. Ngay cả khi vấn đề ly hôn đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định nhưng chưa có hiệu lực thì họ vẫn có quyền hưởng di sản của nhau trong trường hợp này.

Trong trường hợp người vợ (hoặc chồng) đã kết hôn với người khác nhưng vào thời điểm trước đó khi người chồng hoặc vợ cũ chết họ vẫn đang tồn tại quan hệ hôn nhân thì quyền thừa kế của họ vẫn được công nhận.

Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ thân thuộc, gần gũi nhất, cha mẹ đẻ với con đẻ đương nhiên là những người được hưởng thừa kế của nhau với vị trí hàng thừa kế đầu tiên.

Khái niệm con đẻ bao gồm cả con trong giá thú và ngoài giá thú, cho nên con ngoài giá thú cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha mẹ mình, chỉ cần họ có chứng cứ để chứng minh được điều này.

Ngoài con đẻ, pháp luật cũng công nhận quyền thừa kế cho cha mẹ nuôi, con nuôi là hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên, điều này chỉ được ghi nhận nếu quan hệ giữa cha mẹ nuôi, con nuôi được thực hiện theo thủ tục quy định.

Quan hệ thừa kế giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế

Điều 654 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định rõ “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về thừa kế thế vị và quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế của Bộ luật này”

Theo quy định này, trong trường hợp nếu con riêng và bố dượng, mẹ kế có căn cứ chứng minh được giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, mẹ con thì họ cũng được ghi nhận quyền thừa kế như giữa cha, mẹ với con ruột.

Do đó trong trường hợp này, họ cũng sẽ được xếp vào hàng thừa kế thứ nhất của nhau để hưởng di sản.

Người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ 1 sẽ là những người được chia di sản trước tiên khi phân chia di sản thừa kế theo pháp luật, được quyền thỏa thuận về việc phân chia di sản, được quyền từ chối nhận di sản trong trường hợp không muốn nhận di sản. Trừ trường hợp từ chối nhận di sản để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba.

Điều luật trên quy định về hai mối quan hệ: quan hệ giữa người chồng với con riêng của vợ, quan hệ giữa người vợ với con riêng của chồng.

Các bên trong mối quan hệ nói trên không có quan hệ huyết thống nên về nguyên tắc thì họ không phải là người thừa kế theo pháp luật của nhau.

Tuy nhiên, nếu giữa họ có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng lẫn nhau thì họ được xác định tương tự như cha, mẹ nuôi với con nuôi và vì thế họ sẽ là người thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau nhưng không đương nhiên mang tính hai chiều như quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ nuôi, con nuôi.

Tuy nhiên, như thế nào được coi là có “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha mẹ, con” là một vấn đề hết sức khó khăn trong thực tiễn.

Thực tế cho thấy khi con riêng và mẹ kế cũng như con riêng và bố dượng không ở chung và sinh hoạt cùng một gia đình thì không thể xác định giữa họ có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng trong khi những người con đó thật sự về mặt tình cảm đã coi mẹ kế như mẹ đẻ, bố dượng như cha đẻ của mình. Họ luôn luôn quan tâm và thường gửi tiền cũng như các vật chất khác để phụng dưỡng bố dượng, mẹ kế.

Ngược lại, có trường hợp có ở cùng nhà với nhau nhưng bằng mặt nhưng không bằng lòng nên việc xác định giữa họ có chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha, con; mẹ con là vô cùng khó khăn.

Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định những đối tượng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, bao gồm:

Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

Con thành niên mà không có khả năng lao động.

Những đối tượng này được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó.

Các trường hợp hàng thừa kế thứ nhất không được hưởng thừa kế

Pháp luật quy định có ba hàng thừa kế, tuy nhiên các hàng thừa kế thứ hai và thứ ba chỉ được hưởng thừa kế khi mà hàng thừa kế thứ 1 không còn ai do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hoặc từ chối nhận di sản.

Theo đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ 1 sẽ không có quyền được hưởng thừa kế nếu rơi vào một trong các trường hợp sau:

Người này đã bị kết án do có thực hiện những hành vi nhằm cố ý tước đoạt mạng sống, sức khỏe hoặc ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm một cách nghiêm trọng đối với người để lại di sản.

Tại thời điểm người để lại di sản còn sống thì người thừa kế này đã thực hiện những hành vi vi phạm nghiêm trọng trong việc nuôi dưỡng họ.

Người thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng đã bị kết án do cố ý thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của người thừa kế khác nhằm mục đích hưởng thêm phần di sản của họ.

Người này đã thực hiện các hành vi nhằm mục đích hưởng di sản của người để lại di sản trái với ý nguyện của người chết thông qua việc lừa dối, ép buộc, ngăn cản không cho họ để lại di chúc hoặc lập di chúc giả, sửa chữa, hủy, che dấu di chúc của họ.

Trên đây là toàn bộ tư vấn của Luật Rong Ba về hàng thừa kế thứ 1. Nếu như bạn đang gặp phải khó khăn trong quá trình tìm hiểu về hàng thừa kế thứ 1 và những vấn đề pháp lý liên quan, hãy liên hệ Luật Rong Ba để được tư vấn miễn phí. Chúng tôi chuyên tư vấn các thủ tục pháp lý trọn gói, chất lượng, uy tín mà quý khách đang tìm kiếm. 

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin